TƯ VẤN - TÀI SẢN SAU LY HÔN

TƯ VẤN - TÀI SẢN SAU LY HÔN

Nội dung vụ việc và yêu cầu tư vấn
 
-        Vợ chồng người quen của em sau khi làm thủ tục ly hôn thì người chồng được chia hai miếng đất bên quận 2, đất đó là tài sản trong thời kỳ hôn nhân nhưng khi mua đứng tên một mình người chồng và tại thời điểm ly hôn thì GCNQSDĐ của đất đó đang được thế chấp cho công ty để vay vốn ngân hàng kinh doanh nên sau khi li hôn tất cả giấy tờ liên quan đến 2 miếng đất đó đều giữ nguyên không làm thay đổi gì hết.
 
-        Hiện nay thì họ li hôn đã được một năm rồi, giờ người chồng muốn tiến hành bán miếng đất thì có phải cần sự đồng ý của vợ cũ không ? Hay chỉ cần cung cấp quyết định li hôn của tòa án và giấy chứng nhận chủ quyền sử dụng đất đứng tên một mình chồng là có thể giao dịch được?
 
Trang Thu <khanhtrang1705@yahoo.com.vn>
 
Kính gửi: Bà Nguyễn Thu Trang,  

Trước hết, Công ty Luật TNHH An Ánh Dương (Mild Sunshine Law Firm – MSLF) xin gửi lời cảm ơn đến Quý khách hàng vì đã có sự quan tâm và gửi email đến cho chúng tôi. Xin kính chúc Quý khách hàng nhiều sức khoẻ và thành đạt.

Theo yêu cầu của Quý khách hàng, Mild Sunshine Law Firm (MSLF) xin trân trọng gửi thư tư vấn cho vấn đề của Quý khách hàng như sau:

  1. Tóm Tắt nội dung vụ việc và yêu cầu tư vấn: Theo Email chị trình bày thì:

-        Vợ chồng người quen của chị sau khi làm thủ tục ly hôn thì người chồng được chia hai miếng đất bên quận 2, đất đó là tài sản trong thời kỳ hôn nhân nhưng khi mua đứng tên một mình người chồng và tại thời điểm ly hôn thì GCNQSDĐ của đất đó đang được thế chấp cho công ty để vay vốn ngân hàng kinh doanh nên sau khi li hôn tất cả giấy tờ liên quan đến 2 miếng đất đó đều giữ nguyên không làm thay đổi gì hết.

-        Hiện nay thì họ li hôn đã được một năm rồi, giờ người chồng muốn tiến hành bán miếng đất thì có phải cần sự đồng ý của vợ cũ không ? Hay chỉ cần cung cấp quyết định li hôn của tòa án và giấy chứng nhận chủ quyền sử dụng đất đứng tên một mình chồng là có thể giao dịch được?

  1. Các căn cứ pháp luật điều chỉnh:

-         Luật hôn nhân và gia đình năm  2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành

-         Bộ luật dân sự 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành

-         Bộ luật tố tụng dân sự được sửa đổi bổ sung 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành

-         Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

  1. Nội dung tư vấn

Để trả lời thắc mắc của Chị một cách đầy đủ thì chúng tôi cần phải xem nội dung bản án cụ thể, tuy nhiên, theo như chị trình bày thì hai miếng đất bên quận 2 là tài sản hình thành trong hôn nhân nhưng được chia cho người chồng sau khi ly hôn. Chúng tôi không rõ là việc người chồng được chia này có ghi nhận cụ thể trong bản án của Toà án hay không. Vì vậy, xin tư vấn đến chị như sau:

  1. Trước hết cần xác định rõ 2 miếng đất đó là: (i) tài sản riêng của người chồng hay (ii) tài sản chung của vợ chồng hay (iii) tài sản chung của vợ chồng nhưng đã được Toà án tuyên chia cho người chồng khi giải quyết ly hôn. Thì mới có thể trả lời được.
  2. Cần phân biệt là không phải mọi tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân thì đều là tài sản chung của vợ chồng mà cũng có thể là tài sản riêng của vợ hoặc chồng tuỳ thuộc nguồn gốc tạo lập tài sản hoặc tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của vợ chồng:  
  •   Căn cứ vào khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 quy định về tài sản chung của vợ chồng như sau:

           “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.

           Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi  kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận”.

  •   Tại mục 3 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng quy định:

“Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, trong trường hợp tài sản do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng, nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế riêng, được tặng riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng quy định tại khoản 1 Điều 32 (ví dụ: được thừa kế riêng một khoản tiền và dùng khoản tiền này mua cho bản thân một chiếc xe môtô mà không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng). Trong trường hợp không chứng minh được tài sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng thì theo quy định tại khoản 3 Điều 27 tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng”.

==> Việc xác định tài sản có trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của vợ hoặc chồng hay tài sản chung của vợ chồng không phải căn cứ vào việc người nào mua hay người nào đứng tên trên các giấy tờ sở hữu mà phải căn cứ nguồn gốc tạo lập tài sản đó.

  1. Việc xem xét 2 miếng đất đó là tài sản riêng của người chồng hay tài sản chung của vợ chồng thì cần dựa vào các căn cứ sau:
  • Nếu người chồng cho rằng đó là tài sản riêng của mình và người chồng chứng minh được: 2 miếng đất đó là do người chồng đã được tặng cho riêng, được thừa kế riêng, được hình thành từ nguồn tài sản riêng hoặc do người vợ đã cam kết đó là tài sản của người chồng hoặc trong bản án ly hôn đã nêu rõ việc phân chia 2 miếng đất đó cho người chồng hay trong bản án nêu là không có tài sản…mà đến nay bản án đã có hiệu lực pháp luật, không có kháng cáo, kháng nghị, phúc thẩm hoặc tái thẩm về vấn đề này;… thì 02 miếng đất ở đó thuộc quyền sở hữu của người chồng.
  • Nếu người chồng không chứng minh được những căn cứ như trên và trong bản án ly hôn ghi nhận rằng các bên không yêu cầu giải quyết về tài sản (do hai bên tự thoả thuận và tự giải quyết) thì đó là tài sản chung của vợ chồng.

 4.Khi đã xác định 2 miếng đất đó là tài sản chung hay tài sản riêng của người chồng thì :

    (i) Nếu là tài sản riêng của người chồng hoặc trong bản án ly hôn có quyết định phân chia hai miếng đất đó cho người chồng (ví dụ như hai miếng đất đó đang thế chấp ngân hàng để đảm bảo khoản nợ chung cho công ty, nên người chồng nhận khoản nợ này thì đồng thời sẽ nhận luôn quyền sở hữu hai miếng đất này, vì khi ly hôn thì ngoài việc chia tài sản chung (quyền) thì còn phải chia cả nợ chung (nghĩa vụ)) thì người chồng được toàn quyền sở hữu đối với hai miếng đất này (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) vì vậy, nếu muốn bán thì người chồng cũng không cần sự đồng ý của người vợ cũ.

     (ii)  Nếu là tài sản chung của vợ chồng và/hoặc khi giải quyết ly hôn toà án không xem xét  vấn đề tài sản thì: khi người chồng muốn bán phải được sự đồng ý của người vợ cũ, vì đối với những tài sản chung chưa phân chia thì họ vẫn là đồng chủ sở hữu mặc dù họ không còn là vợ chồng và do tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân nên theo khoản 2 Điều 219 Bộ luật dân sự năm 2005 thì đây là sở hữu chung hợp nhất theo đó: Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thoả thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật”.

=> Trong trường hợp này, nếu người chồng muốn bán hai miếng đất ở quận 2 thì phải được sự đồng ý của người vợ cũ.

=>  Trường hợp người chồng bán đất này mà không được sự đồng ý của người vợ cũ, thì hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ đó sẽ bị vô hiệu theo quy định của pháp luật dân sự, khi đó người vợ có quyền làm đơn yêu câu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và phân chia tài sản chung đó.

Do không có hồ sơ cụ thể nên chúng tôi chỉ có thể tư vấn sơ bộ đến chị như trên. Còn vấn đề gì chưa rõ hay cần trao đổi thêm, chị vui lòng liên hệ Công ty Luật TNHH An Ánh Dương ở địa chỉ 1545 Huỳnh Tấn Phát, P.Phú Mỹ, Q.7, chúng tôi sẽ giúp chị làm rõ vấn đề.

Xin trân trọng cám ơn và kính chào!

Tp. HCM, ngày 15/10/2014

                                                                  Luật Sư NGUYỄN THỊ MỸ VIỄN

 

Luật sư khác